Mưa dầm dề chín đêm mười bữa sáng
Mưa rào rào chín buổi sáng mười đêm
Mưa ở giữa đồng
Mưa vòng ra bờ suối
Mưa xói núi
Mưa mòn gò
Mưa từ chân trời này
Mưa sang chân trời nọ
Trời kéo mây ùn ùn
Trời đùn mây kìn kìn
Gió ầm ầm bốn bên
Mây ùn lên từng đống
Mây kéo chồng từng mảng
Mưa ngập ruộng sâu, ruộng cạn
Mưa trằn bờ suối, gò cao
Mưa ngập bụi
Mưa ngập cây
Nước chín đồi đổ về một biển
Nước mười đồi đổ về một sông
__________
Một vài nét về tác phẩm (Source:
thptphanchautrinh.com)
1. Quy mô
Sử thi "Đẻ đất đẻ nước" có quy mô hoành tráng. Bản sưu tầm ở Thanh Hoá dài tới 8503 câu thơ. Người Mường ở Nghĩa Lộ, Hoà Bình và miền tây Thanh Hoá còn truyền tụng "Đẻ đất đẻ nước". Các thầy mo (thầy cúng) vẫn đọc "Đẻ đất đẻ nước" trong các tang lễ.
2. Tóm tắt
Thuở ấy, khi đất trời còn hỗn mang, bỗng "mưa dầm mưa dãi" nước ngập mênh mông, 50 ngày sau mới rút hết. Tự nhiên mọc lên một cây xanh có 90 cành, có một cành cao trọc trời, biến thành ông Thu Tha, Bà Thu Thiên. Hai Thần truyền lệnh làm ra Đất, Trời và Vạn vật. Sau đó, nắng dữ dội suốt 12 năm liền, mặt đất xơ xác. Thần Pồng Pêu ao ước một trận mưa lớn. Tức thì mưa to gió lớn suốt chín, mười ngày đêm; hạt mưa to bằng quả bưởi, nước lại ngập bao la. Bẩy tháng sau nước rút cạn, có một cây si khổng lồ mọc lên tua tủa
1919 cành. Trời sai con Sâu Gang khoét ruỗng ruột cây si. Cây đổ, mỗi cành hoá ra một bản mường:
[...]
Một cành đổ về đất Sạp
Nên mường Sạp.
Một cành đổ về đất Giạp
Nên mường Giạp.
Một cành ngã về đất Bi, đất Lỗ.
Nên Mường Bi, Mường Lỗ
Có một cành si lại hoá ra Mụ Dạ Dần; mụ đẻ ra hai cái trứng kì dị, nở ra cun Bướm Bạc và cun Bướm Bờ. Vừa mới nở, cun Bướm Bạc đã ăn hết 9 chõ cơm; cun Bướm Bờ ăn hết 5 chõ xôi:
Cun Bướm Bạc và cun Bướm Bờ
Lớn cao hơn đụn chính, đụn mười.
Tiếng cười như tiếng trống cái
Tiếng nói như tiếng sấm vang
Xương vai dài tám mươi lóng
Xương sống dài bẩy mươi gang
Vua trời cho mười nàng tiên xuống trần gian du ngoạn. Hai cun cưõi ngựa bạc, vác ná đi săn lợn rừng, gặp các nàng tiên "lưng ong, tóc mượt". Hai nàng tiên quên đường về trời. Họ nên vợ nên chồng. Sau 12 năm 9 tháng, hai nàng tiên sinh được
một bầy con mà "Trống chim Tùng, mái chim Tót là con út con yêu". Đôi chim trống mái sau "9 ngày, 9 đêm, 9 tháng" đẻ ra
1919 chiếc trứng nở ra Thần Chớp, Thần Mây, nở ra chuột, lợn, voi, thú dữ... Đôi chim đẻ ra lứa thứ hai:
Được một trứng đen đen bốn khúc
Trứng bầu dục 4 khuôn
Mặt vuông mặt tròn chín cạnh
Rành rành mười hai quai
Mụ Dạ Dần sai chim chiền chiện ấp, trứng nở ra
một bầy con,
mỗi đứa nói một thứ tiếng: tiếng Lào, tiếng Thái, tiếng Kinh, tiếng Mọn, tiếng Mường, tiếng Mán, tiếng Mèo… Trứng cũng nở ra
anh em nhà lang: ông Dịt Dáng, ông Lang Tà Cái, ông Lang Cun Cần, bố Bướm Khang, ông Sang Si, nàng Vạ Hai Chiếng.... Loài người có từ đấy. Bộ tộc Mường có từ đấy.
Thần Cuộng Minh Vàng Rậm, nàng ả Sấm Trời
"đúc 9 mặt trời, đúc được 12 mặt trăng" làm chói chang trời đất. Họ nhà Ngao "thần nỏ"
dùng cung tên bắn rụng hết, chỉ để lại một mặt trăng, một mặt trời. Rồi ông Thu Tha, bà Thu Thiên làm ra năm, tháng, ngày, đêm, bốn mùa cho người theo đó làm ăn sinh sống.
Người Mường chưa có thủ lĩnh. Mường nước mời ông
Dịt Dáng, rồi mời Lang Tá Cái ra
"cầm binh cầm mường”. Cả hai
đều bất tài bị
"ma đón đường, thuồng luồng xanh","rồng vàng ngăn ngõ". Mường nước phải đi mời Lang Cun Cần ra tiễu trừ ma quỷ, thú dữ.
Ma chạy từng bầy trốn vào trong núi
Ma rồng sợ Lang Cun Cần trời
Thuồng luồng sợ Lang Cun Cần chặt
Ma Trời, ma Đất cùng chạy nhanh nhanh
Lang Cun Cần trở thành thủ lĩnh từ đó. Rùa Thần giúp lang dựng nhà cửa to đẹp. Tà Cắm Cọt (thần lửa) cho Cun Cần lửa. Nàng tiên Mái Lúa (thần Trồng Trọt) giúp lang nhiều hạt giống để sản xuất. Lang Khấm Dậm bày cho cách ủ men chế rượu cần. Mụ La, mụ Húng (thần chăn nuôi) dạy cho mường nước nuôi gia súc, gia cầm. Mường nước có trâu bò cày ruộng làm nương.
Hai chương 17, 18 gồm 1263 câu thơ kể chuyện Lang Cun Cần lấy vợ. Lang lấy
em gái là nàng Vạ Hai Chiếng, bị làng bản
coi khinh, bị vua Trời sai cun Sấm nàng Sét (thiên lôi) xuống trừng phạt, may mà thoát chết. Lang Cun Cần sai bỏ nàng Vạ Hai Chiếng vào rừng sâu. Lang sai người đem lễ vật đi khắp nơi tìm
"gái đẹp con dòng". Cun Cần lấy được nhiều vợ: có vợ là con gái vua Trời, có vợ là thần tiên, có vợ là con gái mường nước. Lang Cun Cần có một bầy con:
Nàng Vậm Đầu Đất
Đẻ được cun Tồi, cái Sang
Nàng Vậm Đầu Nước
Đẻ ra cun Tàng, cái Lớn,
Nàng Ả Sao, Ả Sáng,
Ả Rạng nhà ông vua Trời
Đẻ được Lang Cun Khương
Ả Gái nuôi trong mường
Đẻ ra chàng Toóng Ín
Con cái trưởng thành. Lang Cun Cần chia đất cho các con. Anh em bất hoà. Toóng Ín vu cho Lang Cun Khương làm giặc để âm mưu cướp đất của anh. Lang Cun Khương chạy lên vua Trời, nhờ ông ngoại che chở. Trời giáng hoạ, gây ra lũ lụt, ép anh em nhà Lang phải giết Toóng Ín. Từ đó,
Lang Cun Khương trở nên một thủ lĩnh giàu có, đầy quyền uy.
Tậm Tạch là tôi tớ của lang đã tìm được cây Chu Đồng (cây thần) lấy được
"bông thau, quả thiếc" mà trở nên giàu có. Anh em Lang Cun Khương lập mưu chuốc rượu cho Tậm Tạch say, lừa lấy được "bông thau, quả thiếc". Lang đưa cả mường nước đi chặt cây Chu Đồng kéo về làm nhà chu. Tậm Tạch phản lại bị lang giết chết.
Rùa Thần lại giúp lang
làm nhà chu "sáng cả mường, kinh kì kẻ chợ",
"rạng trời rạng đất". Lang giết 10 voi ngà, 30 trâu mộng, 9 bò, 100 gà sao, nấu 1000 vò rượu, để ăn mừng. Lang Cun Cần ban thưởng cho các con nhiều vàng bạc quý giá.
Con của Tậm Tạch lại đốt nhà chu để báo thù cho cha. Hắn lại bị lang giết chết, máu hắn hoá thành con Moong khổng lồ, tàn phá bản mường. Lang Cun Cần đưa tất cả mường nước đi săn Moong, vô cùng nguy hiểm mới giết được. Moong được ăn thịt;
người Lào, người Thái, người Tày, người Mường nhanh chân lấy được da Moong vằn vện mà học được cách
thêu thùa, dệt vải rất đẹp.
Người Kinh đến sau lấy được thịt và mỡ Moong, từ đấy biết
nấu nhiều món ăn ngon. Người "Mường ngoài" (Hoà Bình) đến sau cùng, chẳng được thứ gì , chỉ nhìn thấy đống tro thui Moong, chẳng may, gió thổi tro bay dính vào môi, nên môi người "Mường ngoài" bị đen là vì thế!
Tai hoạ còn nhiều. Chó ăn phải phổi Moong mà thành chó điên. Chó điên bị giết, xác bị quẳng xuống sông, cá ăn phải biến thành Cá điên. Cá điên bị lang bắt giết, bầy quạ ăn phải hoá ra Quạ điên. Mường nước săn lùng mãi, cuối cùng Lang Cun Khương bắn trúng Qụa, cả bày hoảng sợ bay trốn vào rừng sâu. Nhưng rồi hồn Toóng Ín lại biến thành Ma Ruộng đưa bầy Rắn
"mỏ vàng, mỏ đỏ" đánh nhau với anh em Lang Cun Khương. Quân hai bên đánh nhau suốt đêm ngày, kịch chiến giữa ruộng, quần nhau trên đồi gianh, đuổi nhau trong rừng sến, hỗn chiến tại bến sông Rồng,... Toóng Ín thất thế phải chạy xuống thuỷ phủ của Long Vương ẩn náu và xin cầu viện. Long Vương biến Toóng Ín thành Ma May, Ma Lang. Hắn đưa binh mã gồm thuồng luồng, ba ba, cá ngao... dâng nước làm lũ lụt, dìm chết được Lang Cun Tàng. Lang Cun Khương cùng mường nước nổi
chiêng cồng đem giáo mác, cung nỏ, lưới... vây các ngả sông đón đánh. Giặc Ma May, Ma Lang bị đại bại, bỏ lại trên bãi chiến trường bao xác loài thuỷ quái.
Từ đó, mường nước yên vui, hoà bình thịnh vượng. Lang Cun Cần đã sống được trên
vạn năm. Trẻ già, trai gái mường nước nô nức sắm áo quần, lo kiệu lo ngai, rước vua về,
"Đồng chì tam quan kẻ chợ".
Giảng văn: Đẻ nước
1. Xuất xứ
Đoạn thơ này trích gần trọn chương "Đẻ nước" trong sử thi "Đẻ đất đẻ nước"; từ câu 268-334 theo sưu tầm của Hoàng Anh Nhân (Thanh Hoá)
2. Ý chủ đạo
Đoạn thơ nói về trận đại hồng thuỷ thời tiền sử - buổi đầu khai thiên lập địa theo cách cảm nhận riêng của người Mường xa xưa.
3. Ông Pồng Pêu
Là Thần Mưa theo cách gọi của người Mường.
Thiên tai kéo dài
"Hạn 9 tháng biền biệt - nắng 12 năm xác đất" làm cho muôn loài đau khổ:
"cây cau úa cả tàu - rừng vàu không mọc măng", làm cho
"chó mực, chó ngao lè lưỡi, rái cá phải chạy lên đồi"...
Ông Pồng Pêu lúc đó đang ngồi "đan chài" và "đan lưới" trong nhà, bình dị như con người lao động. Ông ngước nhìn khắp trời đất, rồi gọi gió, gọi
"mưa cho mát lòng các loài thú hiền thú dữ, cây lau cây bái". Tức thì trời mưa to. Pồng Pêu là biểu tượng cho ý nguyện của muôn loài muôn vật và con người vì sự sống bất diệt trên trái đất.
4. Cảnh trời mưa
Mây vàng mây đen đùn lên che kín cả bầu trời, gió ùn ùn thổi điên cuồng. Cun Sấm nàng Sét cùng ra oai:
Lanh lảnh cun Sấm xuống thét
Lăm lăm nàng sét xuống đánh
Mưa kéo dài "mưa 9 đêm, mưa liền 9 ngày". Hạt mưa " to bằng hột cà" về sau "to bằng quả bưởi". Nước ngập mênh mông. Mưa để "rước nàng ngâu về trời" để "đưa chàng ngâu qua sông Ngân". Mưa "ngập cây", "ngập bụi", mãi "bốn tháng nước rút - bẩy tháng nước xuôi". Mưa đem đến sự sống cho đàn cua đá, đàn cá, đàn ba ba, đàn cá chuối, đàn nòng nọc, đàn cá cơm. Sau khi "đẻ nước" trời "đẻ đất".
Có đất, đất đang xơ xác,
Có nước, nước ùn đục ngầu
Đó vẫn là cảnh thiên địa sơ khai.
_____________
Con Mèo trong sử thi Mường Đẻ đất đẻ nước (Source:
baodulich.net.vn by Vương Anh 2011)
Mèo vàng.Con mèo đốm, con mèo đen như bồ hóng
Sống biết chăm việc nhà
Ta chết đừng theo ta cho cực nhọc
Mi hãy ở lại bắt chuột, giữ mùa màng
Cho con, cho cháu, chắt, chút, chít… ta
Mùa nào thức ấy
Chúng nó ăn cơm nhạt
Thì mi ăn cơm nhạt,
Chúng nó ăn canh thịt
Thì mi được ăn cơm thịt…
Cháy hết nhà Tà Cụt, Tà Cặt
Cháy rụi nhà Tà Đôi, Tà Đai
Cháy hết chín mươi hai đụn lúa
Cháy rã nhà kho mắm
Cháy xám nhà kho muối
Cháy rụi kho bát, kho ăn
Cháy hết nhà kho vàng, kho bạc
Cháy xác nhà kho súng
Cháy bùng nhà kho diêm sinh…
Cháy hết nhà Cun Tồi
Cháy rã nơi Cun Tàng
Cháy xém sập bạc, ngai vàng nhà Lang Cun Khương
Cháy lan ra mường
Cháy quàng ra núi
Cháy với lên đồi Bái Cả
Lửa cháy đến đâu
Khói ào ào trụi rừng nát cỏ
Cuộc truy đuổi anh em nhà Tặm Tạch của nhà Lang: Khi Cun Tồi, Cun Tàng, Cun Khương rút dao cán bạc, cán ngà xông ra đuổi chém thì thằng Tặm, con Tạch.
Chạy một mạch lên núi
Chạy một buổi lên rừng
Chạy mãi lên thung xanh
Chạy luồn núi con, núi cái
Chạy quanh chân mây, chân trời
Con Tạch biết hóa, biết chui
Ẩn vào nơi gốc cây si